Suốt 87 năm, khi nhắc đến Việt Nam Quốc Dân Đảng là người ta liên tưởng đến Nguyễn Thái Học và 12 đồng chí của ông đã bị lên máy chém ngày 17 tháng 6 năm 1930 tại Yên Bái, nhưng ít ai biết được con số 13 đó chỉ là một phần rất nhỏ các đảng viên VNQDĐ đã tuẫn tiết hoặc đã bị xử tử bởi thực dân Pháp. Quyển sách “Lịch Sử Đấu Tranh Cận Đại” của Cụ Hoàng Văn Đào là một tài liệu lịch sử sống, ghi lại con đường đâu tranh gian khổ, tấm gương bất khuất của những người Cách Mạng Quốc Gia Chân Chính, hy sinh sự nghiệp và mạng sống để mong đạt mục tiêu: “Dân Tộc Độc Lập – Dân Quyền Tự Do – Dân Sinh Hạnh Phúc”. Họ tuy không thành công, nhưng đã thành nhân. Chúng tôi xin được trình bày cùng quý vị tài liệu “Lịch Sử Đấu Tranh Cận Đại” dưới 2 hình thức: Sách và Audio qua diễn đọc truyền cảm quen thuộc của chị Tâm An. Tuy rất bận và sức khỏe hiện tại không được tốt lắm, nhưng sau khi đọc xong quyển sách thì chị Tâm An đã không ngần ngại nhận lời thâu audio toàn bộ quyển sách, để sử liệu quý giá này có thể chuyển tới quý vị nhất là tới các bạn trẻ một cách rộng rãi.
CHƯƠNG II: THI VĂN CA KỊCH CỦA CÁC NHÀ CÁCH MẠNG VIỆT NAM QUỐC DÂN ĐẢNG
MẤY LỜI KÝ THÁC CỦA NHÀ CÁCH MẠNG PHAN SÀO NAM
Cô Khóc Cậu (cô đây là Cô Giang) Thình lình một tiếng sét ngang lưng, Nuốt nghẹn tình tơ xiết nói năng. Mây mịt mờ xanh, trời vẫn hắc, Giọt chan chứa đỏ, bể khôn bằng! Thân vàng đành cậu liều theo cát, Dạ tuyết thôi em gởi với trăng. May nữa duyên sau còn gặp gỡ, Suối vàng cười nụ có ngày chăng! Hồn Cậu Trả Lời (Cậu là Nguyễn Thái Học) 1. Gặp mình, mình lại thẹn cùng mình, Ai khiến em mà vội gặp anh ? Vẫn nghĩ hữu chung vi hữu thủy. Thôi thì đồng tử chẳng đồng sinh, Trăm năm cuộc bụi, dâu hay bể ? Một tấm lòng son, sắt với tình. Gió dữ mưa cuồng thây kệ nó, Dắt nhau ta tới tận thiên đình. 2. Dắt nhau ta tới tận thiên đình Quyết dẹp cho yên sóng bất bình. Mặt nước em còn hồng giọt máu, Nợ đời anh chửa trắng tay tanh, Trăm năm thề với trời riêng đội, Bảy thước âu là mẹ chẳng sinh. Mình hỡi mình đừng buồn bã quá, Hồn còn mạnh khoẻ, phách còn linh. Chị Khóc Em (Chị là Cô Bắc) (Khi được tin em chết theo người yêu) 1. Em ơi! Em vậy, chị thì sao ? Ghê gớm mà cùng tiếc biết bao! Chung nợ cha sinh và mẹ dưỡng, Rẽ đường vực thẳm với bờ cao, Ngại ngùng gió yếu, mây trơ mực, Tức tối trời say, máu úa đào. Hồn có linh thiêng, dùm tính nhỉ, Mẹ già, em bé, nghĩ thương nao!
2. Mẹ già, em bé, nghĩ thương nao! Và nợ chồng con nặng biết bao! Nổ đất thình lình tay vỗ kép, Nhuộm trời ghê gớm máu phun đào, Giữa trường tân khổ no cay đắng, Trước phận phong ba nổi gió trào. Chị có ngờ đâu em đặng thế! Biển ngần ấy rộng, núi ngần cao Phan Sào Nam
KHÓC NGUYỄN THÁI HỌC (Nhượng Tống) Nhục mấy trùng cao, ách mấy trùng, Thương đời không lẽ đứng mà trông! Quyết quăng nghiên bút xoay gươm súng, Đâu chịu râu mày thẹn núi sông, Người dẫu chết đi lòng vẫn sống, Việc dù hỏng nữa, tội là công. Nhớ anh nhớ lúc khi lâm biệt, Cười khóc canh khuya chén rượu nồng. Nhượng Tống
BẤT DI THI (Lam Giang) Vĩnh Phúc phong trần hậu, Hàn vân quyển biệt ly! Thánh nhân tồn cổ huấn. Chiến bại bảo tàn kỳ, Thiên viễn tăng cô phẫn, Tâm hùng thệ bất di, Cầu an vô ẩn giả, Quốc vận bởi trường bi, (tạm dịch) Vĩnh Yên từ gió bụi mờ, Biệt ly mây biệt bơ vơ ngàn trùng, Thánh nhân lời dặn hào hùng, Ngọn cờ chiến bại, kiên trung vẫn còn, Trời xa xót nỗi cô đơn, Lời thề vàng đá chưa sờn chí trai! Cầu an đâu xứng anh tài, Lẽ đâu vận nước còn dài thê lương! Lam Giang
TUỞNG NIỆM NGUYỄN THÁI HỌC (Nguyễn Phan An) Yên Bái đầu rơi một sớm nào. Lòng son ngời sáng với trăng sao… Vì dân dựng Đảng, ôi! Xương trắng, Vì nước ra công, hỡi! Máu đào! Cách mệnh chưa thành! Sông núi khóc, Tài mưu sớm thác! Gió mưa gào. Hai mươi tám tuổi ‘’thành nhân ấy’’, Trang sử ngàn thu đã bước vào. Nguyễn Phan An
HOÀI NIỆM ANH LINH NHƯỢNG TỐNG (Nguyễn Phan An) Từ ngày anh lặng lẽ qua đời, Trường văn, nghiệp báo loạn tơi bời, Một lũ đầu cơ văn nghệ ấy, Làm mưa làm gió khắp bao nơi! Anh thác hồn anh có nhẹ nhàng, Đòi phen gió lạnh nhắn thu sang. Tôi từng đốt nến thương anh đấy, Suốt một đời thơ máu lệ tràn! Anh chết không kèn trống tiễn đưa, Không người nhắc lại chuyện ngày xưa… Có người cách mạng mà thi sĩ. Gác chuyện ân tình đạp gió mưa. Ôi! Xót xa là một kiếp ‘’Anh’’! Uổng thay thánh thót tiếng hoàng oanh! Ca cho vỡ cổ xù lông đấy, Đời hiểu gì đâu lũ lợi danh. Chuyện cũ cùng nhau lộng tới giờ… Mòn chân tranh đấu vẫn trơ vơ! Một vì dân tộc giang sơn ấy, Thà chết không thà chịu nhuốc nhơ! Anh chết rồi đây ai nhớ đâu! Mình tôi thao thức giữa đêm sâu, Khóc cho máu lệ trào ra mắt, Còn lại gì qua lớp biển dâu! Thôi xót xa chi chuyện đổi đời. Của phường cơ hội hỡi anh ơi ? Những người cách mạng mà son sắt, Càng chịu cô đơn tới mãn đời! Anh chắc cùng anh HỌC thuở xưa, Giờ đây cùng nói chuyện say sưa… Những ai đã chết vì dân tộc. Hương khói ngàn thu sẽ tiễn đưa. Nhất định rồi qua lũ lợi danh, Rồi qua, qua hết chuyện phân tranh, Không! Không! Tín nghĩa ngời thiên cổ, Trang sử ngày sau sẽ chép anh. Nguyễn Phan An (1)
THAY LỜI VỢ TẶNG QUẠT CHO CHỒNG TRONG NGỤCTHẤT 1929 (Nguyễn Văn Phác) Gạt lệ đưa anh chiếc quạt này, Khi buồn cầm đến để vui tay. Xua con muỗi đói đang rình đốt, Đuổi cái ruồi hôi chực quấy rầy, Phong lại nhớ nhung lời ước cũ, Mở ra phe phẩy đỡ cơn may. Tình em gởi quạt khi phong mở, Gạt lệ đưa anh chiếc quạt này. Nguyễn Văn Phác
HÁT NÓI (Làm tại Hỏa Lò, Hà Nội, 1929 – Phạm Tuấn Tài) Miễu Trông người lại ngẫm đến ta, Nín đi đứt ruột, nói ra nghẹn lời. Than ôi! Cũng một kiếp người, Tủi thân trâu ngựa thiệt đời thông minh. Nói Trâu cày ngựa cưỡi, Nghĩ thân mình thêm tủi lại thêm thương, Cũng thông minh tai mắt một phường, Người mắc ách, kẻ giong cương, kỳ quái chửa! Thà rằng thể phách như trâu ngựa, Khổ nỗi tâm hồn khác cỏ cây. Nhìn giang sơn khi quắc mắt lúc cau mày, Tưởng nông nỗi đắng cay lòng tráng sĩ! Nước đời cay đắng bao nhiêu vị ? Giống ươn hèn càng nghĩ lại càng thương! Bảo nhau ta phải tự cường! Phạm Tuấn Tài
SÀ-LIM OÁN (Sà-lim Hà Nội năm 1929 – Thẩm Chi tức Cả Vấn ) Đầy ám ngục hơi sầu ảm đạm Nát tâm bào lửa hận cháy gan. Một mình lăn lóc trên sàn, Đắng cay nước mắt, nhà tan thân tù! Trong cửa kín sớm hôm chẳng biết, Ngoài đồng bào chết sống không hay! Than ôi! Nông nỗi nước này! Đôi phen hồn ngất máu say vì thù! Lòng héo hắt cơm bơ nước gáo, Thân võ vàng xiêm áo tả tơi! Nghiến răng muốn đập tan trời! Tủi thân nô lệ, căm loài dã man. Giận cho kẻ tham vàng phụ nghĩa, Đem anh em bán rẻ cho người. Bạc đen chi mấy thói đời! Nước non đành để cho người chủ trương. Cơ thành bại nát gan tráng sĩ, Cuộc hưng vong ráo lệ anh hùng, Thương thay con cháu Lạc, Hồng, Vì đâu cá chậu chim lồng xót xa! Hồn tinh vệ bao giờ lấp bể ? Công dã tràng thương kẻ đồng tâm. Giọt sầu lã chã khôn cầm! Dao oan nghiệt cắt ruột tầm đòi cơn. Ngoài song sắt mưa buồn gió thảm, Bên tường nghe tiếng bạn thở than. Vì đâu nên cuộc dở dang! Vì đâu sẩy nghé tan đàn thảm thương! Lòng rầu rĩ canh trường khó nhắp, Đêm năm canh thổn thức đòi cơn. Hỡi ai dạ sắt gan vàng ? Cùng nhau trong hội đoạn trường là đây! Thẩm Chi tức Cả Vấn
Chú Thích: 1.- Nguyễn Phan An là bào đệ Nguyễn Ân, nguyên quán tại Tỉnh Quảng Nam. Quá phẫn uất về cộng sản hoàng hành, mà hàng ngũ chiến sĩ quốc gia bị phân hóa trầm trọng. Nguyễn Phan An đã mắc bệnh loạn trí, hiện nằm điều trị tại nhà thương Biên Hòa (1967).
VĂN TẾ CÁC TIÊN LIỆT VIỆT NAM QUỐC DÂN ĐẢNG (Phan Bội Châu trước tác – Sinh viên Huế truy điệu) Gươm ba thước chọc trời kinh, chớp cháy, này Lâm Thao này Yên Bái, này Vĩnh Bảo, khí phục thù hơi thở một tầng mây! Súng liên thanh vang đất thụt, non reo, nào chủ đồn, nào xếp cẩm, nào quan binh, ma hút máu người bay theo ngọn gió. Trách nông nỗi trời còn xoay tít, trước cờ binh sao quay gió cản ngăn. Tiếc sự cơ ai quá lờ mờ, dưới trướng giặc bấy nhiêu tay len lõi. Ma cường quyền đắc thế sinh hùng uy, Thần công lý bó tay nghe tử tội, Ôi thôi! Mù thảm mây sầu, Gió cuồng mưa vội, Cửa quỷ thênh thang! Đường trời vòi vọi! Nhân dân chí sĩ, sát thân vào luật dã man, Nữ kiệt anh hùng, thất thế đang hồi đen rủi, Trường tuyên án chị chị anh anh cười tủm tỉm, tức nỗi xuất sư vị tiệp, vai bể, non gánh nặng hãy trìu trìu. Đoạn đầu đài sau sau trước trước bước thung dung, gớm gan thị tử như quy, mặc cây cỏ máu tươi thêm chói chói. Tuy kim cổ hữu hình thì hữu hoại, sóng Bạch Đằng, mây Tam Đảo, hơi sầu cuộn cuộn, bóng rồng thiêng đành ông HỌC xa xôi. Nhưng sơn hà còn phách ắt còn linh, voi nàng Triệu, ngựa nàng Trưng, khí mạnh nhơn nhơn, hình hạc gió hãy cô GIANG theo đuổi. Đoàn trẻ chúng tôi nay, Tiếc nước còn đau, Nghĩ mình càng tủi! Nghĩa lớn khôn quên! Đường xa dậm mỏi. Dây nô lệ quyết rày mai cắt đứt, anh linh thời ủng hộ, mở rộng đường công nhảy, bằng bay. Bể lao lung đua thế giới vẫy vùng, nhân đạo muốn hoàn toàn, phải ráng sức rồng giành, cọp chọi. Đông đủ người năm bộ lớn, đốt hương nồng, pha máu nóng, hồn thiên thu như sống như còn. Ước ao trong bấy nhiêu niên, rung chuông bạc, múa cờ hồng, tiếng vạn tuế càng hô càng trỗi, Tình khôn xiết nói, Hồn xin chứng cho, Thượng hưởng! Phan Bội Châu trước tác Sinh viên Huế truy điệu
VĂN TẾ ĐỒNG BÀO LÀNG CỔ AM và NHỮNG LÀNG KHÁC BỊ THỰC DÂN KHỦNG BỐ TÀN SÁT (1930) (Phan Bội Châu) Than rằng: Dân nước mất nghĩ càng đau quá! Dế, trùn, kiến, mối nhẽ còn hơn. Giặc có quyền thương tới ai đâu! Súng, đạn, gươm, dao, thôi mặc ý. Sóng Âu, Á hai mươi thế kỷ, Cuộc bể dâu trải mấy phen này, Trói tay chân, pháp luật là dây, Bưng tai mắt, văn minh rành vỏ Đau nông nổi mấy năm gần đó, tư bản cường quyền Pháp quá sức hoành hành, Nên anh em sáu triệu xứ mình, Đảng Việt Nam Quốc Dân là đường tự vệ, Lòng yêu nước gốc lòng trời đẻ, ai có xui ai ? Tình thương nòi vẫn tính loài người, tội gì mà tội! Nào hay chọc gan hùm sói! Diễn thêm một cuộc oán thù Làng Cổ Am há phải giặc đâu! Rặt những người cày bẫm cuốc sâu, đóng sưu nộp thuế! Làng Xuân Lũng cũng là dân thảy, đâu có kẻ tranh thành cướp đất, đắp lũy xây đồn! Huống gì đàn chiu chít bé con! Với những lũ gầy gò già yếu! Đáng thương thiệt đầu man mắt trú, gánh vác nặng nề, dưới nhà nước tha hồ đè nén. Xứ cày cấy há phải trường chinh chiến, tưởng ngỡ gà kêu chó sủa, đất há hẹp gì. Chúng làm ăn nào biết việc đua tranh, chắc là thuế ráo sưu xong, trời cũng thương đến. Họa ao cá vì ai xui khiến! Đạn tầu bay vô cố xán nhào! Đoàn già lũ bé xương chất nhốn nhao, thảm bại ấy vì sao! Ơn khai hóa vài trăm khẩu súng, Mẹ góa con côi, máu sôi tản mác, sự tình thôi quá ngán, quyền tự do mấy chục quả bom! Đã đành than lấp bùn chôn giữa nước lửa chỉ là mồ dân Việt. E lửa trời cùng đất kiệt, ngoài non sông đâu tá cảnh nguồn đào! Thương ôi! Gương cũ treo cao, Cuộc sau gấp tính, Hai lăm triệu nay ai còn tính mệnh, thịt đầu da há phải điều vui! Toàn ba kỳ nếu sẵn nhân tài, chim ngoài lưới phải lo đường sống. Hát vô dụng mà khóc cũng vô dụng, duy mong mỏi giòng Hồng giống Lạc, bà con anh chị một lòng, gìn giữ máu Tiên Vương. Họa phi thường thời phúc cũng phi thường, những ao ước núi Tản sông Lô cả nước mở mang hồn Tân Việt Mấy lời tâm huyết, chín suối hồn nghe! Thượng hưởng, Phan Bội Châu
LỄ TRUY ĐIỆU CÁC CHIẾN SĨ YÊN BÁI (Của Kiều Bào Ở Xiêm (Thái Lan) năm 1931) Than rằng: Vừng Quế Hải gió tanh mưa máu, áng ba đào vì tình thế xui nên. Cõi Viêm Bang núi thịt cùng xương, nỗi bi thảm xưa nay chưa thấy có! Ngoài ngàn dậm trông về cố quốc, Non sầu bể thảm, quặn ruột gan như chín khúc tơ vò! Cuộc trăm năm tưởng tới đồng tâm, Cỏ úa hoa rầu, dẫu sắt đá cũng hai hàng lệ nhỏ. Anh chị em ta! Gặp lúc vận nước suy vi, Giống nòi cực khổ, Quân quỷ trắng gia tay bóc lột, rày sưu mai thuế, róc tận xương da, Lũ lằn xanh bu miếng đỉnh chung, bán nước buôn dân kể chi máu mủ! Tay cách mạng đã từng phen bồng bột, tiếc nơi tâm chí có thừa mà phương châm chưa đủ, sức ve mình chấu đành chịu khoanh tay. Thôi thì dạy bừa hết cách, đàn áp đủ đường, dàm ngựa ách trâu hãy còn chịu cổ, Tụi tân học đua nhau Âu hóa, bình đẳng tự do thoa cửa miệng, thực lòng vì nước, trăm người có một, ngắm tiền đồ thêm ngán bọn Tây du. Bọn cựu Nho toan kế Duy Tân, anh hùng lãnh tụ chất đáy lòng, thực dạ vì nòi, xét sổ được bao nhiêu, thôi đại sự chắc chỉ người Đông độ! Nay gặp lúc phong trào sôi nổi, khắp năm châu trống dục kèn kêu, Nay gặp người chỉ lối đưa đường, cùng bốn bể triều dâng sóng vỗ. Rừng cách mạng ta góp cây, Bão cách mạng ta góp gió. Màn phấn đấu khởi tháng Hai năm ngoái, cõi Yên Bái dậy một phen oanh liệt, máu quốc dân phun nhuộm đẫm sa trường. Cuộc biểu tình liền tháng Tám vừa đây, đất Hồng Lam gây một trận tung hoành, Tổ Quốc kêu vang kèn dụng võ. Nhân dân Việt đã quyết chí tiêm cừu. Đế quốc Pháp phải già tay khủng bố. Thương những kẻ gan vàng dạ sắt, lăn lóc tuyên truyền cổ động, bỗng rủi cơ mưu bại lộ, nhẹ lông hồng khi lên máy đoạn đầu. Xót những người rách áo đói cơm, ước ao hạnh phúc dân quyền mà đem tính mạng hy sinh, phá hang cọp để tìm sinh lộ. Thương những kẻ trong trường thương mại, phá gia nghiệp ngàn vàng tu trợ, án tình nghi không quản lửa kìm tra! Xót những người án binh nhung, rắp ranh tâm hạn tâm hán, chước đao qua mấy trận tung hoành, hồn nghĩa hiệp nhóng theo hòn đạn nổ. Bạn má phấn phất cờ nương tử, chí tang bồng duyên hồ thỉ, phận liễu bồ vùi giữa đám binh đao. Bọn đầu xanh kết tội thiếu niên, đi diễn thuyết, phát truyền đơn, đem mệnh tử để ra ngoài mạng số. Thương những kẻ Hỏa Lò Khám Lớn, mài mật chống cùng oai vũ, tiếc nỗi gan vàng mà mệnh bạc, hồn lìa theo ngọn búa đầu rơi! Xót những người Lao Bảo Côn Lôn, nằm gai chịu với phong trần, gặp nơi nước biếc non xanh, xác đành gởi ngàn cây nội cỏ. Ôi! Thương ôi! Tấc dạ trung trinh, tấm lòng kiên cố; những cái chết đáng thương đáng tiếc, đáng dạ nhớ lòng ghi, những cái chết đáng yêu, đáng bia đồng tượng gỗ. Người ấy ví còn sống lại, còn hy vọng cho quốc gia dân tộc nhiều, thân kia dầu có chết đi, cũng ảnh hưởng cho cuộc cách mạng đồng bào chẳng nhỏ! Anh em, chị em ôi! Tủi phận quê người, chạnh niềm nước cũ, đọc đến chữ ‘’tinh thần bất tử’’ dạ đinh ninh kẻ khuất với người còn! Gẫm đến câu ‘’khí phách trường tồn’’, lễ truy điệu biểu tấm lòng ái mộ. Hỡi ơi! Thương thay!
LỜI THỀ Ở ĐỀN HÙNG (Bi Kịch Của Phan Ảo Giản Đã Trình Diễn Ở Hý Viện Norodom 1957) Nhân Vật: – Cô Giang – Cô Bắc – Bà quán già – Con gái bà quán Cảnh 1 Đêm khuya, dưới ánh sáng của ngọn đèn dầu hỏa mờ mờ, cô Bắc đang khâu Đảng Kỳ một cách kính cẩn và say sưa. Khâu xong cô nâng ngắm nghía: Cô Bắc: Ôi đẹp quá! Đảng Kỳ trông đẹp quá! Hơn một giờ vất vả mới khâu xong, Đây sắc vàng: tượng trưng nòi giống Lạc Hồng, Đây màu đỏ: huyết dâng trào cách mạng! Một ngày kia trên Kỳ đài hùng tráng, Lùa ánh dương, người phất phới tung bay. Tiếng hoan hô làm núi chuyển trời lay, Một dân tộc đứng lên đập tan xiềng xích! Ôi ngày đó! Ôi cái ngày tuyệt đích, Cách mạng thành! Quân nghịch bị tiêu tan. Toàn dân ca dậy khúc khải hoàn. Ta sung sướng… (có tiếng gõ cửa) – ‘’Đêm khuya ai gõ cửa ?’’ (Tiến ra cửa hỏi) – Ai đó ? Đêm khuya sao không đèn lửa ? Cô Giang: Em đây mà! Chị Bắc! Em đây mà! Cô Bắc: À em Giang! Chị những tưởng ma tà! Sao về trễ, chị trông em thật mệt nhọc, Và gì đây, nặng nề nằm trong bọc, Tài liệu hay ? Cho chị đọc với nào! Cô Giang: Suỵt! Chậm chậm, chị chớ làm ồn ào! Khẩu súng sáu em mơ ngày nhập Đảng! Cô Bắc: Sao em có! Ai cho em, quý vô hạn! Cho chị xem! Thích quá đi! Ô! Mầu thép bóng lạ kỳ! Ô! Những viên đạn chì bé nhỏ thế này! Mà đủ giết người ta chết!… Cô Giang: Ôi! Quê mùa! Mạnh ra phết, Chị coi chừng cẩn thận chớ lẫy cò! Cô Bắc: Mà chị hỏi em ai cho ? Sao em có ? Chị làm sao có được ? Hãy nói mau kẻo người ta đoán trước!… (cười mỉa) (cười mỉa) Cô Giang: Để em thưa! Sáng nay anh Học mới vừa… Cô Bắc: Của anh Học! Sướng quá nhỉ! Mà sao em được giữ Cô Giang: Thì chậm chậm cho em kịp thở! Có gì đâu! Công tác lắm hiểm nghèo, Để hộ thân, em được phép mang theo. Cô Bắc: Em được phép ?… Thế sao bao đồng chí khác! Cũng phải đi công tác hiểm nghèo. Mà lại không có súng mang theo ? Chị không hiểu hay đây là quà đặc biệt! Của anh Học thưởng cho người nữ kiệt ? (cười nhạo) Cho người anh tha thiết…mong thành công! Cô Giang: Chị gạn tra, em khó nói…chuyện lòng… Không! Chuyện bí mật em không được nói… (đỏ mặt bẽn lẽn) Cô Bắc: (cười) Thôi đi em! Chị hiểu rồi đừng rối! (hơi buồn) Súng đây là hạnh phúc song đôi Một là niềm hạnh phúc mà mọi người Khi nhập Đảng đều mong chờ khôn xiết, Ấy là được bậc đàn anh siêu việt, Tín nhiệm mình giao công tác hiểm nguy, Và ban cho vũ khí để phòng nguy, Hai là niềm hạnh phúc của tuổi xuân, Nhưng điều này em phải tự cung trần, Chị đâu dám!…chị nhờ em cho biết. Cô Giang: (một phút im lặng lúng túng) Chị Bắc! Đầu đuôi chị đã thấu triệt! Thì em có giấu chẳng được nào! Thôi tiện đây em thưa chị vài lời: Khi nhập Đảng, ta đã thề cương quyết, Đem thân thế hy sinh cho TỔ QUỐC, Thì dám đâu nghĩ đến chuyện trăm năm! Huống vĩ nhân đâu có dễ mê đam, Cành hoa dại, mà coi thường dư luận! Không! Không! Vĩ nhân là bậc anh tuấn, Người đi trên những tình ái hẹp hòi, Người thương yêu tha thiết cả giống nòi, Đương quằn quại dưới chân phường Đế Quốc, Người đứng dậy dơ cao ngọn đuốc Gọi toàn dân theo ánh sáng vinh quang, Chị cùng em đã theo tiếng gọi lên đàng, Và ánh sáng đã làm em say đắm… Với đôi mắt sâu xa như biển thẳm, Và lưỡng quyền cao, hàm ém, mày ngài… Người tượng trưng đầy đủ bậc tài trai, Em dâng trọn hồn em cho người dắt, Người tín nhiệm giao cho em nhiều công tác, Em làm tròn, người thưởng súng này đây… Buổi lễ thiêng tổ chức thế này: Em lược thuật cho chị nghe một chút: Ngày hôm ấy Người cùng em nhân công tác, Qua Đền Hùng vào giữa một buổi trưa. Người vào đền khấn vái một hồi lâu, Rồi trao súng cho em và nói: ‘’Này Cô Giang! Hãy nhìn lên làn khói, Đương ngậm ngùi cuồn cuộn trên đỉnh trầm… Đó! Hồn thiêng của Tổ Quốc thương tâm, Đương trông đợi bầy con vùng đứng dậy, Cô đã sớm được lòng dân tin cậy, Đáng thưởng cô khẩu súng hộ thân, Và đây trước Tổ Tiên, Trời Đất, Quỷ Thần, Cô nhận lấy, rồi phát lời tuyên thệ. Em cảm động rưng rưng đôi mắt lệ, Vừa hân hoan lại run sợ lạ thường. Em đưa tay đỡ lấy vật thiêng liêng, ‘’Xin Trời Đất Quỷ Thần chứng giám Con Nguyễn Thị Giang quyết hy sinh cho Đảng, Với súng này con quyết thành nhân, Sống cùng anh…mà thác cũng cùng anh con’’. Cô Bắc: Có hề gì em! Miễn lòng ta trinh bạch, Đã đồng chí tất phải đồng tâm. Em Giang tôi là ‘’Nguyễn Thái Học phu nhân’’! Vinh hiển lắm cho gia đình ta đó vậy! (Màn hạ nhanh)
Cảnh 2 Cô Giang: Nam mô! Trời Đất! Quỷ Thần! Ấp Cổ Vịt! Trời ơi! Ấp Cổ Vịt! Thế là hết! Trời ơi! Thế là hết! Anh hùng mạt lộ từ đây! Giang sơn nghiêng ngửa biết ngày nào thôi! Mà được rồi! Việc gì phải than thở! Ta cười lên! Hả! Hả! Hả! Hả! Hả! Hả! Ủa! Chung quanh ta đất trời nghiêng ngả! Tan vỡ rồi! Mộng cả! Hỡi lòng ơi! Đền Hùng, lời khấn còn lời… Nước chưa giải phóng! Thương người hùng anh! Tàn nhẫn quá! Hỡi! Trời xanh cay nghiệt! Khờ dại thay! Dân Cổ Vịt! Mà ta phải đi! Phải đi ngay! Cô Bắc: (tiến tới nắm tay Giang âu yếm) Em Giang ơi hãy nghe chị dạy! Phải bình tĩnh để xứng danh chiến sĩ! Hãy nuốt lệ cắn răng trong cơn bĩ! Chớ làm phiền bao đồng chí lo cho em, Khóc và than chỉ tổ làm yếu mềm! Cô Giang: Em đâu có khóc! Em nhớ rõ lời thề với anh Học, ‘’Sống cùng anh và thác cùng anh’’ kia mà! Thôi chị buông em ra! Để em đi! Cô Bắc: Em đi đâu! Em đi làm gì! Nguy hiểm lắm! Em đương khủng hoảng, Tâm hồn em chưa hết cơn sảng loạn, Em nói năng, cười khóc quá bất thường, Bọn ma tà vây bủa khắp nẻo đường, Hở một tí là không phương cứu chữa. Cô Giang: Nhưng chỉ còn một bữa! Chỉ còn một bữa nữa thôi! Chị Bắc ơi ? Rồi vĩnh biệt muôn đời! Đi là sống! Không đi là chết! Mà sống hay chết quyết không cách biệt! Em đã nhất quyết! Chị để cho em đi! Cô Bắc: Em đi đâu! Em đi để làm gì ? Nguy hiểm lắm! Em chưa định tĩnh! Cô Giang: Em đã suy tính, Rất kỳ công! Em phải đến pháp trường. Cô Bắc: Chết! Em muốn nạp thân! Không được! Đảng rất cần, Nữ đồng chí tài ba như em vậy, Cô Giang: Chính vì thế em phải đi Yên Bái, Cô Bắc: (ngạc nhiên) Ồ! Em đi Yên Bái, Cô Giang: Vâng! Em đi Yên Bái, Chúng đã muốn cho xương tan máu chảy, Thì em quyết cho máu chảy xương tan! Thề xưa buộc trói muôn vàn, Chị ôi! Yên Bái ngày tang muôn đời! Chị cho em gửi đôi lời, Biệt ly cha mẹ, giã từ anh em! Dưỡng sinh chưa chút báo đền! Sổ đồng chí đã ghi tên tự bao giờ! Thề xưa không thể xoá mờ, Súng này, bom ấy đương chờ nổ vang. Cô Bắc: Em quyết tới pháp trường, Để tự vẫn. Cô Giang: Chị hỏi sao lẩn thẩn, Em có buồn chi mà tự vẫn! Không, em có buồn gì đâu! Ngày mai Yên Bái rơi đầu, Bao nhiêu anh kiệt hô câu ‘’Hận Trường’’! Ai gieo buồn! Ai gieo thương! Ai gieo thảm! Ai gieo tang tóc! Ai kìm! Ai hãm! Cả hai mươi triệu đồng bào, Phải đem xương trắng máu đào Viết trang chiến sử, nêu cao ngọn cờ… Mà bây giờ mấy giờ rồi nhỉ ? Em phải đi cho kịp chuyến tàu chiều. Cô Bắc: Em mang theo hành lý quá nhiều! E bất tiện! Bom này khó dấu kín! Súng này quá kềnh càng! Cô Giang: Chị còn là chị Nguyễn Thị Giang! Chở bao tạ súng, gươm mà không lộ… Bom này em cho nổ Súng này em cho vang, Ngày mai Yên Bái pháp tràng, Thực dân cũng phải thịt tan xương rời. Thù nhà nợ nước đền bồi, Lời thề mấy chốc thành lời sử xanh. Sống cùng anh thác cùng anh… Còn bao đồng chí phải thành công mau. Đồng bào đau khổ ngập đầu, Em đi! Chị nhé! Đã gần Đến giờ tầu chạy… Cô Bắc: Ôi! Ngày mai Yên Bái! (màn hạ rất nhanh)
Cảnh 3 Lão bà: (chủ quán ỡ giữa cánh đồng làng Đông Vệ) Đêm đã khuya, chắc không có lữ khách, Mà độ rầy ai còn dám đi đêm! Bọn tuần đinh, đón xét, lục, xoát, tìm. Gây phiền nhiễu dân tình ta oán quá, Chúng đặc biệt bủa vây những quán lá, Như quán mình…thôi ra hạ cửa đi con. . Thiếu nữ: (con gái lão bà, trông ra trời đêm tối tăm) Trời tối đen, nặng trĩu khói u buồn, Kìa mấy vì sao băng, băng liên tiếp… Trong không khí có gì nghe khủng khiếp… Thôi mau mau… Cô Giang: (xuất hiện trong bộ đồ tang) …khoan hạ bếp, còn lữ hành! Thiếu nữ: (ngạc nhiên) Mẹ ơi ? Khoan súc ấm trè xanh, Còn có khách! Cô Giang: (đưa tay ra hiệu từ chối) Chị không khát! Chị ghé tạm trong vài phút lại đi. Thiếu nữ: (nhận ra được) Ủa chị Giang! Em tưởng khách lạ đâu đâu! (im lặng nhìn cảm động) Lão bà: Ủa Cô Giang! Sao từ lâu… Cô Giang: (ra hiệu) Xin thấp giọng Đêm khuya thanh vắng… Thiếu nữ: Chị để chở cho ai mà mặc trắng ? Cô Giang: (chậm rãi) Em ơi! Cả nước non… Sụp đổ rồi mộng cả của tuổi son! Tang Yên Bái! Em ơi! Tang Yên Bái! Máu đã chảy! Máu anh hùng đã chảy! Có bao giờ thấy lại vĩ nhân! Lão bà: (ngã quỵ xuống, ôm mặt khóc) Đã xử rồi! Hỡi trời đất! Quỷ thần! Ôi non nước! Từ đây ai dẫn dắt ? Ôi! Tàn bạo! Cái lũ người cướp nước! Cô Giang: Kể làm sao cho hết nỗi căm hờn! Xin lão bà lai tỉnh để cho con. Thưa chút chuyện, rồi con đi kẻo vội! Lão Bà: Cô cứ nói. Thiếu nữ: Chị kể cho nghe, chúng xử làm sao! Cô Giang: Em lạ gì, số phận của anh hào! Em ơi, xương trắng máu đào, Cha sanh mẹ dưỡng cù lao tác thành. Hiến thân là nợ anh hùng Pháp trường Yên Bái cỏ xanh nhuộm đào. Mười ba thủ cấp anh hào, Rơi rơi liên tiếp, máu trào hùng kiêu! Lưỡi dao xén mạnh cổ lìa, ‘’Việt Nam Vạn Tuế’’ lời hô cuối cùng. Xa trông chỉ thấy anh hùng, Ung dung đưa mắt nhìn trông đồng bào, Ý chừng người muốn biệt chào, Rồi người nghiêm nghị tiến vào máy kia. ‘’Việt Nam Vạn Tuế’’ gươm rơi! Thế là chấm dứt một đời hùng anh! Em ơi em, mưu dũng không thành, Súng này bom ấy chị đành khoanh tay! Pháp tràng Yên Bái sáng nay. Nổ tung không được, lính vây quá nhiều. Than ôi! Sinh tử đã liều, Quyết cùng liệt sĩ kính yêu chết cùng, Mà không diễm phúc chết chung! Thì lời thề ấy…cũng không thể rời! Thân không giúp ích cho đời! Thù không trả được cho người tình chung! Dẫu rằng đương độ trẻ trung, Quyết vì dân chúng thể lòng hy sinh, Con đường tiến bộ mông mênh, Éo le hoàn cảnh buộc mình biết sao! Bây giờ hết kiếp thơ đào, Gian nan bỏ mặc đồng bào từ đây! Dẫu rằng chút phận thơ ngây, Sổ đồng chí đã có ngày ghi tên! Chết đi dạ những buồn phiền, Nhưng mà hoàn cảnh chuân chuyên buộc mình. Đảng kỳ phất phới trên thành, Tủi thân không được chết vinh dưới cờ! Cực lòng nhỡ bước sa cơ! Chết sầu chết thảm, có thừa xót xa! Thế ru! Đời thế ru mà! Đời mà ai biết! Người mà ai hay! Bà ơi! Con gửi thư này, Xin nhờ chuyển lại cho thầy mẹ con. Và đây một chút lòng son, Gửi cho đồng chí hãy còn sống sau. Khuya rồi! Con phải đi mau, Chúc bà trăm tuổi bạc đầu bình an. Còn em! Nhiệm vụ sẵn sàng, Như xưa gánh vác cho hàng ngũ ta. Cúi xin bái biệt lão bà, Chị đi em nhé! Canh gà đã khuya! (vội bỏ ra đi) Thiếu nữ: (tiễn theo ra cửa Sương rơi ngọn cỏ đầm đìa, Khăn tang áo chế, đêm khuya một mình, Nước non nặng một khối tình, Tay ai ném chiếc lưu tinh trên trời… Lão bà: Than ôi! Nữ kiệt vá trời, Từ nay luyện đá, không người luyện chung! Nước non vắng khách anh hùng, Bao giờ mới hết lao lung đọa đày! Trời xanh sao ác quá thay! Mười ba tuấn kiệt, một ngày cướp đi! Đầu xanh có tội tình gì ? Thương dân cứu nước tội gì hỡi ai ? Ông Học ơi! Ông Học ơi! Bao lần ông tới quán tôi họp bàn, Mưu toan giành lại giang san, Tuy già tôi cũng vào đoàn lão nhân, Quán này xơ xác nghèo bần, Từng nghe Quốc tế, Tam dân luận bàn, (có tiếng súng ngoài đồng vọng lại) Đoành! Đoành! Súng ai vừa mới nổ vang!!! Thiếu nữ: (hớt hãi chạy vào) Súng chị Giang! Súng chị Giang! Trời ơi! Thêm một cái tang não nùng! Lão bà: (lắc đầu đau đớn) Lời thiêng khấn tại Đền Hùng! Con mau hạ liếp, sắp lùng bố đây… (màn hạ nhanh) HẾT